NÔNG NGHIỆP THỊNH VƯỢNG
NÔNG DÂN GIÀU CÓ
NÔNG THÔN VĂN MINH HIỆN ĐẠI
Hội Nông dân tỉnh Nghệ An
Cổng thông tin điện tử
Hội Nông dân tỉnh Nghệ An
Vì sao rác thải thuốc bảo vệ thực vật vẫn vứt bỏ nhiều trên đồng ruộng
Thứ năm - 06/07/2023 03:311.4100
(Hội NDNA) - Vừa qua trên Báo Nghệ An đã có nhiều bài viết nói về tình trạng vất bỏ rác thải thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) trên đồng ruộng gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ con người. Tình trạng này như Báo Nghệ An đã nói “Chuyện cũ nói mãi”. Vậy nguyên nhân nào mà nói mãi vẫn chưa hạn chế được và cần có giải pháp gì đây.
Có nhiều nguyên nhân
Trung bình mỗi năm Nghệ An gieo trồng trên 380.000 ha cây trồng các loại, sử dụng một khối lượng ít nhất từ 350 – 400 tấn, nhiều nhất từ 500 – 600 tấn thuốc phòng trừ sâu bệnh và cỏ dại… Toàn bộ lượng thuốc BVTV nói trên sau khi đã sử dụng để lại trên đồng ruộng ít nhất từ 35 – 40 tấn bao bì, chai lọ, nhãn mác (gọi tắt là rác thải thuốc BVTV) và khoảng 10% lượng thuốc còn dính sót lại trong các loại rác thải đó.
Riêng việc phun thuốc phòng chống các loại sâu bệnh, cỏ dại cho cây trồng đã gây ra ô nhiễm môi trường nước, đất, không khí… Nhưng càng nguy hiểm hơn là việc sau khi phun thuốc xong, các loại rác thải thuốc BVTV được vứt bỏ lại trên đồng ruộng mới thật sự đáng sợ nhất, không những gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn mà còn để lại trên đồng ruộng những loại rác thải khó hoặc không thể phân huỷ được.
Đây chính là hậu quả để lại biết bao nhiêu tai hoạ cho tất cả các loại sinh vật, trong đó có con người phải hứng chịu nhiều loại bệnh tật cực kỳ nguy hiểm như: ung thư, lở loét da, đột biến gen…
Biết nguy hại của việc sử dụng thuốc phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng và tình trạng vứt bỏ rác thải thuốc BVTV trên đồng ruộng. Biết vậy, mà vẫn chưa ngăn ngừa được. Vậy, nguyên nhân chủ yếu là gì ?
Thứ nhất: Trong tất cả các biện pháp phòng chống sâu bệnh, cỏ dại gây hại cây trồng từ trước lại nay, chúng ta đang coi trọng biện pháp sử dụng các loại thuốc hoá học là biện pháp hàng đầu, biện pháp không thể thay thế; mà xem nhẹ các biện pháp canh tác, vừa hợp lý, vừa khoa học, vừa không gây hại môi trường, không làm ảnh hưởng đến sự sinh tồn của tất cả các loại sinh vật khác và cả sức khoẻ của con người. Đó là các biện pháp:
Gieo cấy mật độ thưa, vừa giảm chi phí sản xuất, vừa làm giảm hoặc rất ít bị các loại sâu bệnh gây hại, như: rầy nâu, sâu cuốn lá, bọ xít, bệnh đạo ôn, bệnh khô vằn…
Bón phân cân đối, hợp lý, nhất là phân đạm, sẽ hạn chế đến mức thấp nhất hoặc không có các bệnh đạo ôn, bạc lá, khô vằn…
Cày bừa kỹ nhuyễn, ngâm ngấu đất trước khi gieo cấy, vừa là biện pháp thâm canh tốt cho cây trồng, vừa tiêu diệt cơ bản cỏ dại, không phải dùng thuốc diệt cỏ nhiều như hiện nay.
Áp dụng quy trình canh tác IPM, ICM, SRI…, vừa thâm canh cây trồng khoa học, hợp lý, vừa ngăn ngừa và hạn chế sự xuất hiện của nhiều loại sâu bệnh phá hoại… sẽ giảm thiểu rất lớn đến việc sử dụng các loại thuốc BVTV.
Nếu thực hiện tốt những biện pháp KHKT nói trên thì sẽ hạn chế nhiều đến việc rác thải thuốc BVTV bị vất bỏ bừa bãi trên đồng ruộng.
Thứ hai: Việc sử dụng thuốc BVTV tràn lan khó kiểm soát. Thực tế hiện nay, khi cây trồng bị một loại sâu bệnh nào đó gây hại thì không ít bà con nông dân phải tự mình đi ra ngoài thị trường hỏi mua thuốc về dùng. Ông Nguyễn Văn Ất ở xã Vĩnh Thành, huyện Yên Thành nói với chúng tôi: Sản xuất nông nghiệp bây biờ chủ yếuruộng nhà ai, nhà nấy lo. Mỗi khi cây trồng bị sâu bệnh thì đến các ki ốt hoặc ra chợ hỏi mua thuốc về phun. Người bán thuốc chỉ cần bán được thuốc để lấy tiền, còn sau khi đem về phun có hiệu quả hay không chẳng cần biết, hậu quả là “tiền mất, tật mang”, lại còn gây ra ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng.
Thứ ba: Việc kinh doanh thuốc BVTV là mặt hàng kinh doanh có điều kiện. Nhưng việc quản lý kinh doanh mặt hàng này hiện nay còn lỏng lẽo. Tuy trách nhiệm đã được quy định thì rõ ràng, tỉnh làm gì, huyện và xã làm gì trong việc thanh kiểm tra, kiểm soát các mặt hàng thuốc BVTV trên địa bàn của mỗi địa phương từ tỉnh xuống huyện, thành, thị xã, thị trấn. Nhưng, việc thanh kiểm tra không được tiến hành liên tục, nhất là ở cấp huyện, thành, thị và cấp phường, xã chưa được quan tâm đúng mức.
Theo số liệu của Chi cục trồng trọt và BVTV tỉnh Nghệ An, hiện tại toàn tỉnh đang có 637 cơ sở kinh doanh, buôn bán các loại thuốc BVTV, đó là chưa kể đến hàng chục, hàng trăm hộ buôn bán thuốc BVTV mang tính thời vụ. Việc không quản lý được, không thanh kiểm tra, kiểm soát được mặt hàng thuốc BVTV hiện nay sẽ góp phần làm tăng nguy cơ sử dụng thuốc BVTV tràn lan và vất bỏ rác thải thuốc BVTV bừa bãi trên đồng ruộng, càng làm tăng ô nhiễm môi trường ngày càng nguy hiểm hơn.
Thứ tư: Chưa thật sự làm tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn đến tận từng người dân về 2 việc cần biết, cần làm, đó là:
Cần biết cây trồng đang bị loại sâu bệnh gì, nếu không biết thì phải hỏi cán bộ kỹ thuật tại địa phương hoặc Trung tâm dịch vụ nông nghiệp huyện, thành, thị để biết và được hướng dẫn cách phòng trừ có hiệu quả nhất.
Cần làm, đó là sử dụng thuốc theo đúng chỉ dẫn của cán bộ kỹ thuật. Sử dụng hết thuốc phải thu gom hết bao bì, nhãn mác, chai lọ… bỏ vào bể chứa rác thải thuốc BVTV theo quy định của UBND xã, phường, thị trấn. Nếu nơi nào chưa có bể chứa rác thải thuốc BVTV thì thu gom lại để đốt hoặc chon lấp theo quy định của ngành BVTV.
Công tác tuyên truyền, hướng dẫn đến tận từng người dân về 2 việc cần biết và cần làm nói trên rất quan trọng để mỗi một người dân đều được nâng cao ý thức và trách nhiệm trong việc sử dụng thuốc BVTV và thu gom rác thải thuốc BVTV. Nếu việc này không làm tốt thì có xây dựng được bao nhiêu bể chứa rác thải thuốc BVTV để ở ngoài đồng ruộng cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Thứ năm: Số bể chứa rác thải thuốc BVTV còn quá ít ông Nguyễn Văn Dương – Phó Chủ tịch UBND huyện Yên Thành cho biết, toàn huyện có 44.000 ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó có 13.200 ha đất sản xuất lúa 2 vụ xuân và hè thu. Theo thông tư liên bộ NN&PTNT và Bộ TN&MT, các vùng lúa của huyện cần có 4.400 bể thu gom rác thải thuốc BVTV để xử lý đặt ở ngoài đồng ruộng. Nhưng, hiện tại cả kinh phí của nhà nước hỗ trợ và của dân tự đóng góp thêm, mới xây dựng được 2.275 bể, đạt 50% nhu cầu cần có.
Tại huyện Đô Lương, ông Nguyễn Kim Ngọc – Giám đốc Trung tâm dịch vụ Nông nghiệp huyện cho biết, toàn huyện có 12.012 ha cây trồng hàng năm, trong đó có 8/500 ha lúa 2 vụ xuân và hè thu, chưa kể các loại cây trồng khác. Nhưng hiện tại toàn huyện chỉ mới có 3.864 bể chứa rác thải thuốc BVTV, so với nhu cầu cần có còn thiếu hơn 2000 bể chứa nữa.
Theo ông Nguyễn Tiến Đức – Chi cục trưởng Chi cục trồng trọt và BVTV tỉnh Nghệ An cho biết, hàng năm Nghệ An gieo trồng 153.991 ha đất chuyên sản xuất lúa, rau màu và cây ngắn ngày các loại cần được đặt bể thu gom rác thải thuốc BVTV sau khi đã sử dụng ngoài đồng ruộng thì số lượng cần có theo quy định là 51.330 bể. Nhưng, tính đến hết năm 2022 trên địa bàn tỉnh mới có 17.203 bể, số lượng bể còn thiếu 34.127 bể, chiếm 66,48% nhu cầu cần có.
Một số giải pháp khắc phục và hạn chế
Đã đến lúc chúng ta không nên để tình trạng như đã nói trên kéo dài mãi gây bức xúc trong xã hội, gây ảnh hưởng lớn đến ô nhiễm môi trường sống của chính chúng ta.
Vì vậy, có thể có rất nhiều giải pháp hay của nhiều địa phương cả trong và ngoài tỉnh trong việc hạn chế tình trạng rác thải thuốc BVTV sau khi sử dụng được vất bỏ bừa bãi trên đồng ruộng cần được áp dụng. Qua theo dõi, tổng kết và ý kiến của nhiều chuyên gia trong ngành nông nghiệp, chúng tôi thấy cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:
Một: Tăng cường truyên truyền, tập huấn hướng dẫn đến tất cả mọi người dân biết tác hại nghiêm trọng của việc sử dụng thuốc BVTV tràn lan và việc vứt bỏ rác thải thuốc BVTV bừa bãi trên đồng ruộng sẽ gây ra ô nhiễm môi trường nước, đất, không khí và từ đó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến muôn loài sinh vật, trong đó có con người.
Đồng thời tập huấn hướng dẫn cho bà con nông dân nhận biết một số loại sâu bệnh thông thường và phổ biến trên đồng ruộng, cùng với việc sử dụng thuốc trừ sâu bệnh theo phươngpháp 4 đúng (đúng thuốc, pha đúng nồng độ, phun đúng liều lượng quy định và phun đúng kỹ thuật). Sau khi đã sử dụng hết thuốc phải thu gom hết bao bì, chai lọ… bỏ vào bể chứa rác thải thuốc BVTV. Nếu nơi nào chưa có bể chứa rác thải thuốc BVTV thì thu gom lại để ở nơi quy định của xóm, xã, bản, làng để đốt hoặc chôn lấp theo quy trình hướng dẫn của ngành BVTV và tài nguyên môi trường quy định.
Hai: Tăng cường công tác quản lý, thanh kiểm tra, kiểm soát việc kinh doanh các mặt hàng thuốc BVTV trên phạm vi toàn tỉnh. Trách nhiệm tổ chức đoàn thanh kiểm tra, kiểm soát việc kinh doanh mặt hàng thuốc BVTV không riêng gì của ngành nông nghiệp ở tỉnh, mà là trách nhiệm của nhiều ngành (Nông nghiệp, Công an, Công thương, Thuế, Tài nguyên Môi trường…) và chính quyền các địa phương (Huyện, thành thị, xã, thị trấn) để ngăn ngừa tình trạng buôn bán tràn lan các loại thuốc BVTV không có giấy phép kinh doanh, không có chứng chỉ hành nghề được đào tạo… Từ việc buôn bán tràn lan đó đã góp phần gây ô nhiễm môi trường không nhỏ, chưa kể sử dụng thuốc phun không có hiệu quả.
Ba: Đề nghị Trung ương, tỉnh, huyện, thành, thị hàng năm dành một khoản kinh phí thích đáng giúp các cơ sở sản xuất nông nghiệp triển khai thật nhiều bể chứa rác thải thuốc BVTV theo đúng quy định liên Bộ NN&PTNT và Bộ TNMT ngày 16/05/2016 để nhanh chóng khép kín hệ thống bể thu gom rác thải thuốc BVTV trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Đây là việc làm rất cần thiết cả về trước mắt và lâu dài để giảm bớt mức độ ô nhiễm môi trường hiện nay, nhất là trong tình trạng biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng phức tạp, khó khăn hơn.
Bốn: Đề nghị ngành Nông nghiệp cùng phối hợp với các ngành Tài nguyên và Môi trường, Khoa học và Công nghệ…), tập trung xây dựng một số mô hình về ứng dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất thâm canh ít có sâu bệnh, ít phải sử dụng thuốc trừ sâu, như: quy trình sản xuất theo pháp pháp IPM, ICM, SRI, gieo cấy mật độ thưa kết hợp canh tác hữu cơ. Xây dựng mô hình về thu gom và xử lý rác thải thuốc BVTV có hiệu quả. Từ đó tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo, tham quan học tập và nhân rộng mô hình.
Năm: Cần có cơ chế chính sách thưởng phạt thích đáng để khuyến khích những tập thể và cá nhân thực hiện tốt chủ trương thu gom rác thải bỏ vào bể chứa, không gây ô nhiễm môi trường. Phạt bằng nhiều hình thức từ phê bình, khiển trách, đến nạp phạt bằng kinh tế, để mọi người phải có ý thức và trách nhiệm thực hiện nghiêm túc chủ trương đã được quy định. Các địa phương (xã, làng, thôn, bản…) có thể nên quy định thành hương ước trong nội bộ địa phương mình để tất cả mọi thành viên trong địa phương phải có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc bản Hương ước đã được toàn dân tham gia góp ý kiến và thông qua để thực hiện có hiệu lực kể từ ngày ban hành.