Từ ngày 15/8, hướng dẫn hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo ở một số huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo có hiệu lực. Định mức hỗ trợ và giải ngân vốn hỗ trợ với nhà xây mới 40 triệu đồng/hộ, sửa chữa nhà 20 triệu đồng/hộ từ ngân sách trung ương với các nhóm đối tượng này.
Hỗ trợ trực tiếp đến từng hộ nghèo, hộ cận nghèo
Một trong những nguyên tắc thực hiện là hỗ trợ trực tiếp đến từng hộ nghèo, hộ cận nghèo. Ưu tiên hỗ trợ hộ nghèo dân tộc thiểu số và hộ nghèo có thành viên là người có công với cách mạng.
Đối tượng áp dụng gồm 2 nhóm.
Trước hết là hộ nghèo, hộ cận nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025) trong danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo do Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý, đang cư trú trên địa bàn huyện nghèo và là hộ độc lập có thời gian tách hộ đến khi Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 (sau đây viết tắt là Chương trình) có hiệu lực thi hành tối thiểu 3 năm.
Tiếp đó là đối tượng thụ hưởng hỗ trợ nhà ở không bao gồm các hộ đã được hỗ trợ nhà ở thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 và các chương trình, đề án, chính sách khác.
Định mức hỗ trợ nhà xây mới tới 40 triệu đồng/hộ
Thông tư nêu rõ, định mức hỗ trợ và giải ngân vốn hỗ trợ với nhà xây mới 40 triệu đồng/hộ; sửa chữa nhà 20 triệu đồng/hộ từ ngân sách trung ương.
Cơ chế quản lý, sử dụng, thanh quyết toán kinh phí nguồn ngân sách trung ương thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Về tiêu chí, hộ nghèo, hộ cận nghèo được hỗ trợ nhà ở thuộc một trong các trường hợp dưới đây.
Hộ nghèo, hộ cận nghèo chưa có nhà ở hoặc nhà ở thuộc loại không bền chắc (trong ba kết cấu chính là nền - móng, khung - tường, mái thì có ít nhất hai kết cấu được làm bằng vật liệu không bền chắc).
Diện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ nghèo, hộ cận nghèo nhỏ hơn 8m2.
Chưa được hỗ trợ nhà ở từ các chương trình, đề án, chính sách hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội hoặc tổ chức xã hội khác.
Sau khi được hỗ trợ xây mới hoặc sửa chữa, nhà ở phải bảo đảm diện tích sử dụng tối thiểu 30m2, bảo đảm “3 cứng” (nền - móng cứng, khung - tường cứng, mái cứng) và tuổi thọ căn nhà từ 20 năm trở lên.
Các bộ phận nền - móng, khung - tường, mái của căn nhà phải được làm từ các loại vật liệu có chất lượng tốt, không làm từ các loại vật liệu tạm, mau hỏng, dễ cháy.
Tùy điều kiện thực tế, các bộ phận nhà ở có thể làm bằng các loại vật liệu có chất lượng tương đương có sẵn tại địa phương đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, bảo đảm thời hạn sử dụng, Ủy ban nhân dân các tỉnh (hoặc ủy quyền cho Sở Xây dựng) quy định chủng loại vật liệu địa phương cụ thể (nếu có), báo cáo Bộ Xây dựng xem xét, quyết định.
Thông tư cũng nêu rõ quy định ưu tiên hỗ trợ trước cho các đối tượng theo thứ tự dưới đây.
Thứ nhất, hộ nghèo dân tộc thiểu số.
Thứ hai, hộ nghèo có thành viên là người có công với cách mạng.
Thứ ba, hộ nghèo, hộ cận nghèo có thành viên thuộc đối tượng bảo trợ xã hội.
Thứ tư, hộ nghèo, hộ cận nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật).
Thứ năm, hộ nghèo, hộ cận nghèo thuộc vùng thường xuyên xảy ra thiên tai.
Thứ sáu, các hộ nghèo, hộ cận nghèo còn lại.
Đối với các hộ nghèo, hộ cận nghèo có cùng mức độ ưu tiên, việc hỗ trợ được thực hiện theo thứ tự sau:
Hộ nghèo, hộ cận nghèo có nhà ở hư hỏng, dột nát (làm bằng các vật liệu nhanh hỏng, chất lượng thấp) có nguy cơ sập đổ, không bảo đảm an toàn.
Hộ nghèo, hộ cận nghèo chưa có nhà ở (là hộ nghèo, hộ cận nghèo chưa có nhà ở riêng, hiện đang ở cùng bố mẹ nhưng đã tách hộ, ở nhờ nhà của người khác, thuê nhà ở - trừ trường hợp được thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước.
Hộ nghèo, hộ cận nghèo có đông nhân khẩu.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp, tổ chức, cá nhân liên quan chịu trách nhiệm thi hành Thông tư này. Trong quá trình thực hiện, nếu phát sinh vướng mắc, đề nghị phản ánh kịp thời về Bộ Xây dựng để sửa đổi, bổ sung hoặc gửi Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội tổng hợp báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2021 theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho thấy, cả nước có 609.049 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 2,23%.
Bên cạnh đó, tổng số hộ cận nghèo là 850.202 hộ, với tỷ lệ là 3,11%.